Các
dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại là thuật ngữ chỉ các tộc người ở ngoài và bao quanh vùng đất
Hoa Hạ theo lý thuyết
vũ trụ quan "Trung Hoa" (Sinocentric).Lý thuyết này có từ thời
nhà Chu (cỡ 1046–256
TCN), đưa ra khái niệm "trời tròn đất vuông", coi "
thiên hạ" (天下) là bao trùm gồm
Hoa Hạ (華夏) ở trung tâm là người đã giáo hóa văn minh, và bao quanh là các dân tộc
Tứ Di (man di mọi rợ), không phải người Trung Quốc, gồm
Nam Man (南蠻),
Đông Di (東夷),
Bắc Địch (北狄) và
Tây Nhung (西戎).
Hoa Hạ trung tâm phát tích của người Hoa là
Bình nguyên Hoa Bắc, hay
Trung Nguyên, cổ đại là vùng đất ở giữa hai con sông
Hoàng Hà và
Dương Tử. Họ có nhiều tên gọi khác nhau và được quan niệm khác nhau theo thế giới quan của những nhà viết sử
người Hán có xu hướng dân tộc chủ nghĩa. Điều nhất quán là nước của người Hoa là nước trung tâm hay "Trung Quốc", còn những dân tộc nằm ngoài vùng đất bản thổ của người Hoa Hạ là những dân tộc chưa biết văn hóa và luật lệ giữa con người, chưa có quy tắc ứng xử chung như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín hoặc quân, sư, phụ; chưa biết phân định trên dưới, cha con, vợ chồng; chưa có biết dùng mũ, áo, các vật dụng khác nhau để phân biệt tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Quan trọng nhất là chưa có
luật pháp[
cần dẫn nguồn].Các dân tộc ở phía Bắc sông
Hoàng Hà thì họ gọi là
Rợ hoặc
Địch. Các dân tộc ở phía Đông thì họ gọi là
Di. Các dân tộc ở phía Tây thì họ gọi là
Nhung. Các dân tộc ở phía Nam sông
Trường giang thì họ gọi là
Man. Nói chung ở khắp nơi không định hướng là Di Địch, Man Di. Các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật"
[1][2]. Ngày nay
chữ Hán đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có ở chữ Địch (狄).